Điềm đạm một hồn thơ dâng hiến
Hồ Tiểu Ngọc
Đọc Điềm đạm Việt Nam – tuyển tập thơ 50 năm sáng tác của nữ thi sĩ Lệ Thu gần 500 trang sách, khổ 15x23cm, do Nxb Văn học ấn hành Quý III năm 2014, cùng với tập Nhật ký nữ nhà báo chiến trường cũng của Lệ Thu, do Nxb Quân đội nhân dân ấn hành năm 2015, tôi thực sự bị cuốn hút và xúc động bởi cái tâm và cái tình mênh mông, cao đẹp của nhà thơ, nhà báo dành cho quê hương, đất nước và con người bằng tiếng nói thi ca, tiếng nói cuộc sống nhập cuộc, yêu thương và dâng hiến.
Lệ Thu sinh năm 1940, tại Tuy Phước, Bình Định, tập kết ra Bắc 1954, học Đại học Tổng hợp Hà Nội, ngành Ngữ văn. Tốt nghiệp, trở thành phóng viên, biên tập viên Đài Tiếng nói Việt Nam (1964-1972), sau đó, tình nguyện vào miền Nam chiến đấu, làm phóng viên chiến trường, rồi biên tập viên Đài Phát thanh Giải phóng (1973-1975). Sau 1975, về lại quê hương Bình Định công tác và sáng tác. Về sau, bà làm chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Bình Định (1992-1997), Đại biểu Quốc hội (1992-1997). Bà là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội nhà báo Việt Nam. Hiện tại, nhà thơ tròn 76 tuổi, sống và sáng tác ở thành phố biển Quy Nhơn, Bịnh Định. Có thể kể những tác phẩm chính của Lệ Thu: Xứ sở loài chim yến (1980), Niềm vui cửa biển (1983), Hương gửi lại (1990), Nguyện cầu (1991), Chân dung tình yêu (1996), Khoảng trời thương nhớ (2000), Tri kỷ (2000), Đến với thơ Lệ Thu (2000), Mây trắng (2005), Tri âm của đất (2009), Điềm đạm Việt Nam (2014)…
Minh chứng cho thành tựu thơ Lệ Thu là những Giải thưởng cao quý: 04 giải A Văn học nghệ thuật Đào Tấn – Xuân Diệu (tỉnh Bình Định) lần thứ 1 (1990-1995), lần thứ 2 (1996-2000), lần thứ 3 (2001-2005), lần thứ 4 (2006-2010). Đó là kết quả cống hiến cho nền thơ hiện đại Việt Nam của Lệ Thu, xứng đáng là nữ thi sĩ nối tiếp của quê hương “đất võ trời văn” mà bà đã chịu ảnh hưởng từ các thi sĩ lừng danh Bình Định thời Thơ mới 1932-1945: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn… Đó là hành trình sống và hành trình thơ gian nan và vinh dự, lặng lẽ và hiển minh, âu lo và hy vọng, bởi những gì bà có được đều do cuộc sống nội tâm và cuộc sống cách mạng tạo nên. Tâm hồn và thi ca của bà đã thuộc về nguồn cội của những chân lý sáng tạo vĩnh cửu ấy.
Tôi muốn mượn lời của nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam giới thiệu về tập Nhật ký nữ nhà báo chiến trường của Lệ Thu để giới thiệu sơ lược về cuộc đời và những năm tháng thăng trầm của một nữ thi sĩ có hoàn cảnh đặc biệt như Lệ Thu để bạn đọc hiểu thêm về nỗi niềm của một người con gái quê Nam phải xa mẹ, xa quê khi tuổi còn thiếu nữ (14 tuổi), cô đơn trên đất Bắc, được học hành và phấn đấu để trở thành một nhà báo, một nhà thơ sống, công tác và chiến đấu ở những nơi gian khổ, ác liệt nhất của chiến tranh cho đến tuổi già hôm nay là gian khổ và có ý nghĩa như thế nào: Hữu Thỉnh viết: “Đó hầu như là toàn bộ đời sống của một con người trải qua những năm tháng hệ trọng nhất của đất nước và của đời riêng. Tấm phông lớn phía sau là diễn trình dồn dập của biết bao nhiêu sự kiện trong những năm cuối cùng của chiến tranh. Hiện lên trang giấy là những lời tự bạch chân thật đến mức không thể chân thật hơn được nữa”(1).
Tâm trạng và hiện thực trong tập Nhật ký viết ở chiến trường cũng chính là tâm trạng và hiện thực trong thơ của Lệ Thu những năm tháng không thể nào quên ấy. Và chúng đã thành ký ức cho những trang thơ sau chiến tranh của nhà thơ. Quả vậy, hoàn cảnh đất nước cắt chia, cuộc sống lớn của cách mạng và nhân dân cùng với khát khao sáng tạo đã giúp Lệ Thu nhanh chóng nhập cuộc và thao thức để biến hiện thực nếm trải của mình thành năng lực sáng tạo dồi dào, tạo thành thế giới hình tượng đa dạng về quê hương, đất nước và con người trong thời chiến. Và cả sau này, trong thời bình, Lệ Thu luôn đổi mới thi ca trên cái nền ngôn ngữ và quan niệm thơ mà bà đã tâm huyết lựa chọn. Có thể nói, Lệ Thu là nhà thơ nữ có phong cách riêng trong nền thơ hiện đại Việt Nam. Thiên tính nữ dạt dào cộng với những đam mê dâng hiến tình yêu cho cuộc sống đã định hình trong thơ Lệ Thu những phẩm tính trữ tình sâu lắng, luôn gắn với hiện thực cụ thể của cuộc sống để làm nên chất thơ và hồn thơ riêng.
Với hành trình nghề nghiệp lâu dài và vững chắc, Lệ Thu đã xác định cho mình vị trí và quan niệm nghệ thuật riêng. Nghĩ về nghề, nghĩ về vai trò của thi sĩ, Lệ Thu đã gan ruột và nhất quán trong ý hướng và quan niệm. Chúng soi chiếu vào thơ thành những phóng thể tinh thần và thi ca đa dạng, mới mẻ có giá trị nhận thức và giá trị nghệ thuật sáng rõ. Lệ Thu luôn tâm niệm và xác tín về nghề một cách chân thành: “Gian nan và cực nhọc nhưng rất hạnh phúc khi được cầm bút gửi gắm nỗi lòng mình lên trang giấy. Những giây phút sống thực được nhà văn cảm nhận và lưu giữ trong ký ức như con trai ngậm ngọc để kết tinh, thai nghén thành tác phẩm văn chương. Chạy theo “cái mới” của thiên hạ không bằng rèn luyện, nâng cao bản lĩnh độc đáo của chính mình. Tôi tin vào lời đúc kết của tiền nhân: “Văn là người”. Bởi vậy, tôi luôn tự nhủ: Phải biết làm Người trước lúc làm Thơ”(2).
Cũng cùng tư tưởng ấy, Lệ Thu luôn nghĩ về đạo đức của người nghệ sĩ: “Nhà văn phải sống có nhân cách thì mới nói được những điều đúng đắn khách quan… Thông qua tác phẩm tốt, giàu tính nhân đạo, người đọc hiểu được cơ bản phẩm chất của nhà văn. Văn chương mà độc ác thì lòng người cũng khó nhân từ bác ái lắm! Ngược lại, văn chương đẹp đẽ cao vời mà cuộc sống thực của tác giả quá tầm thường tồi tệ, thì lại là sự dối trá với chính mình”(3).Từ hệ quy chiếu ấy, Lệ Thu thường tuyên ngôn nghệ thuật bằng thơ rất súc tích, tâm huyết và nhân hậu:
Câu thơ hay không bảo lãnh được hành vi
Nếu hành vi đó có chút gì khuất tất
Chỉ có thể đem giá trị mình có thật
Thế chấp cho đời để nhận được câu thơ
(Thế chấp)
Quan niệm nghệ thuật của Lệ Thu rất gần với quan niệm của nhà thơ Chế Lan Viên: “Thơ cần có ích – Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi”. Lệ Thu luôn xác tín rằng thơ phải nói về những thực tế ở đời, đừng xa cách, viển vông, hãy nói về nỗi buồn và niềm vui có thật của lòng mình và của chung quanh. Và đặc biệt là nhà thơ phải biết hy sinh và nhân ái: “Phải biết làm người trước lúc làm thơ/ Phải biết nhận về mình phần chát chua cay đắng/ Để vị ngọt cuộc đời còn đọng ở câu thơ” (Tự nhủ) để thơ mãi hiến dâng, chứ “thơ không làm hành khất”.
Với Lệ Thu, thơ phải là thông điệp với nhân gian những ngọt ngào, tri âm, tri kỷ từ trái tim yêu thương và khát khao dâng hiến của nhà thơ: “Khi mặt trời lặn sau địa cầu/ Xin thơ hãy làm trăng/ Làm giọt sương đêm cho hoa ủ mật” (Tự nhủ). Lệ Thu luôn tự vấn với chính mình về những điều “muôn năm cũ” có liên quan đến phẩm tính thi sĩ và sứ mệnh văn chương: “Nhà thơ, dẫu cho cuộc đời riêng có bị vùi dập nặng nề và nghiệt ngã đến đâu thì thơ văn vẫn phải nhân từ, độ lượng, bởi nó phải làm cái phao cứu sinh cho niềm tin của nhân thế, là tri âm, tri kỷ của mọi kiếp người”(4).Lệ Thu đã sống hết cái tôi nghệ sĩ của mình để sống hết cái ta nhân hậu của cuộc đời.
Với những quan niệm thi ca và thi sĩ sáng rõ như trên, Lệ Thu đã dành trọn trái tim thơ của mình cho tình yêu và cuộc sống với bao cung bậc trữ tình, nhân hậu. Thơ chị luôn gắn với những bước đi lớn của lịch sử cũng như những vui buồn ơn nghĩa quanh đời mà chị với tư cách là chứng nhân và là người nhập vai thực hiện.
Chị có tuổi thơ trong veo ở quê hương, nhưng chưa kịp sống hết những kỷ niệm ấu thơ về nơi chôn nhau cắt rốn, thì chị lại phải từ giã mẹ, từ giã quê hương để lên đường ra Bắc. Những lưu luyến, nhớ thương sâu nặng ấy sớm đi vào thơ chị như những vết khắc của tình cảm thiêng liêng với quê hương và người thân: “Một mai ai chớ bỏ ai/ chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim/ Tiếng ru tan trong nhịp võng êm đềm/ Đọng lại hồn con nỗi nhớ” (Nỗi nhớ).
Nỗi nhớ trong thơ Lệ Thu cụ thể và xúc động, bởi nó có khả năng đánh thức những gì thiêng liêng và nhân hậu nhất về tình đời và kiếp người trong từng tâm trạng và hoàn cảnh riêng:“Dẫu mai sau đời tràn ngập ánh ngày/ Màu trắng ấy trong lòng ta vẫn sáng/ Ơi chiếc khăn đêm nay trên màu tóc bạn/ sẽ soi tôi đi trọn cuộc đời” (Chiếc khăn tay màu trắng).
Ngày trở lại quê Nam chiến đấu, Lệ Thu không khỏi ngỡ ngàng, xúc động. Chị như con chim nhỏ giữa bão giông. Cuộc sống kháng chiến gian khổ, hy sinh; còn mình thì yếu mềm, non nớt, biết làm gì để trả nợ non sông của một bậc nữ nhi khi quê hương ngập tràn bóng giặc. Khi đó, điểm tựa và bệ đỡ cho tâm hồn mình chính là nhân dân và quê hương yêu dấu.
Thơ Lệ Thu bao giờ cũng chân thành, xuất phát từ những rung động thực sự trước hiện thực cuộc sống và con người cụ thể. Nhà thơ cảm nhận, rung động và thể hiện thành thơ với hệ thống ngôn từ chắt lọc, tinh tế và giàu tính giãi bày, tâm sự; càng về sau càng triết lý, chiêm cảm. Vì vậy, bên sau hình tượng và ngôn từ, bao giờ tình cảm và suy nghĩ cũng hiện lên sâu sắc và gần gũi. Viết cho con ngày xa cách vào chiến trường, lòng mẹ đau như cắt:
Đêm cuối cùng được ở bên con
Mẹ thao thức lắng nghe từng nhịp thở
Nhịp thở bình yên
Môi con hé mở
Con thấy gì mà cười trong giấc mơ!
Bồi hồi mẹ viết bài thơ
Bao thương nhớ dành cho con tất cả
Mai mẹ lên đường
Nhiều gian lao vất vả
Suốt chặng đường dài mẹ sẽ nhớ về con
Cái miệng hay cười
Cái dáng lon ton
Cái đầu “bẹp cá trê” vì ít khi được bế
Người mẹ đã hiểu tận cùng nỗi đau của đất nước qua bao thế hệ phải hy sinh: “Mai khôn lớn con nghĩ gì về mẹ/ Con nghĩ gì về một chặng đường qua/ Con nghĩ gì về đất nước chúng ta/ Nỗi đau lớn xuyên rất nhiều thế hệ”. Và người mẹ như thấy được cái giá trị hạnh phúc dành cho con ở ngày mai nên bây giờ mẹ phải ra đi: “Khi lịch sử sang trang con vẫn nhìn thấy mẹ/ Khi Tổ quốc gọi tên từng thế hệ/ Trong vinh quang, con không phải cuối đầu”. Bởi vì:
Ai biết mang niềm kiêu hãnh xa sâu
Sẽ biết làm người xứng đáng
Trong hồn mẹ, con sẽ là ngọc sáng
Là gương trong bầu bạn cho đời
Là lửa ấm, hương nồng lòng mẹ, con ơi!
(Viết cho con)
Tấm lòng người mẹ trong thơ Lệ Thu luôn dạt dào, tha thiết. Bà theo dõi con mình trong từng chặng lớn khôn và những chông gai đang bày ra trên con đường đi của cả một thế hệ trẻ mà bà hết mực yêu thương, vừa lo âu day dứt:
Má vẫn thầm ước mong
Những người bạn tốt đừng qua đời
Và kẻ xấu bớt sinh ra
Để đường con dẫu chưa nhiều hoa
Cũng đừng nhiều gai góc
(Năm mười tám tuổi của con)
GS.Trần Thanh Đạm, phát hiện ở thơ Lệ Thu có chất ru, lời ru – một đặc trưng thiên tính nữ nổi bật: “Tôi chỉ lưu ý; người mẹ thi sĩ ấy đã hát ru bằng lời ru chim yến, một bài hát ru giàu tình nghĩa và giàu trí tuệ, có thể được đặt ngang với nhiều bài thơ hát ru hay nhất của các nhà thơ – bà mẹ Việt Nam trong thơ hiện đại: “Chênh vênh vách đá ngàn khơi/ Mẹ xây tổ giữa một trời sóng chao/ Cho con biết tự dạt dào/ Hiên ngang từ phút ban đầu loài chim” (5).
Thơ Lệ Thu từ những năm kháng chiến trải dài đến thời hậu chiến vẫn tiếp nối mạch trữ tình đời tư, thế sự và trữ tình công dân nồng nhiệt ấy, nhưng có sự loại trừ, giảm bớt những yếu tố không còn phù hợp với thời cuộc nữa, để thay vào đó những cảm xúc mới, những chiêm nghiệm mới do hằng số cuộc sống, tâm lý và thi ca đã khác trước. Chất thơ bà vẫn ngọt ngào, sâu lắng nhưng giờ đây nghiêng về chiều sâu của cảm xúc và hình tượng để khám phá, phát hiện bản chất của hiện thực mới, qua đó, bà thể hiện năng lực quan sát, khái quát theo tư duy trữ tình – biện lý của mình bằng những tứ thơ sâu sắc, giàu triết lý:“Hơi ngượng ngùng trước một lời khen/ thoáng ngơ ngác trước điều phản trắc/ thuộc lịch sử cha ông để tin yêu và đánh giặc/ Nhớ rõ người giúp mình để trả nghĩa, đền ơn” (Điềm đạm Việt Nam). Thơ Lệ Thu giàu thiên tính nữ theo cấu trúc tâm cảm riêng của bà. Với tình yêu, bà có cách thể hiện lạ và không kém trẻ trung:
Phút biết anh là phút gặp mắt anh nhìn
Phút hiểu anh cũng là phút ấy
Vì giếng quá trong nên dễ nhìn thấy đáy
Vì mắt quá trong nên mắt nói rất nhiều
Có lẽ mắt muôn đời vẫn nói hộ lời yêu
Em chẳng dám nhìn nhiều – đôi mắt ấy
Đừng hỏi em không nhìn sao thấy
Cho em hỏi một lời: Sao anh cứ nhìn em?
(Lời của mắt)
Lệ Thu dựa vào những non tơ của cuộc sống để phát giác sự vật và con người ở bề sâu, góc khuất của chính chúng, từ đó, thơ sẽ ngân lên những âm thanh dịu ngọt, bao dung: “Cầu mong anh mãi là anh/ Cầu mong trái ngọt, cây lành vườn yêu/ Cầu mong muôn vạn buổi chiều/ Đừng rơi nước mắt bởi điều bâng quơ” (Nguyện cầu).
Thơ Lệ Thu trong thời bình có chiều sâu suy tưởng hơn thơ viết trực tiếp ở thời chiến, bởi nhà thơ có nhu cầu quay về trò chuyện với trái tim mình, tức từ nhu cầu hướng ngoại trở về với hướng nội, khi ấy, mình mới thật là mình, trước khi có nhu cầu tâm sự và chia sẻ với tha nhân: “Ta sinh ra vốn là chiếc lá/ Xanh hết mình cho tất cả tháng năm xanh/ Lúc tàn úa (ta biết rằng không thể khác)/ Dòng nhựa cạn khô và ta sẽ lìa cành”. Từ chất liệu hồn nhiên và tươi non của thiên nhiên, thơ chắt chiu thành chữ để thông điệp đến con người.
Chiếc lá một ngày kia rơi xuống đất
Bao nắng mưa ủ mục dưới chân người
Ta thanh thản lẫn vào cùng vạn vật
Dâng chút mỡ màu cho sự sống sinh sôi.
(Chiếc lá)
Đó chính là những trăn trở để chống lại sự chai lỳ hóa cảm xúc thi ca. Nhà thơ tự thức tỉnh mình bằng những đối sánh với đời tư – thế sự để định hướng hành vi đạo đức. Nhìn loài mai chiếu thủy, bà nghĩ về nghĩa lý và giá trị của đời người: “Không như muôn thuở lẽ thường/ nhởn nhơ khoe sắc, hướng dương phô mình/ Thăng trầm lòng vẫn lặng thinh/ Thản nhiên dưới lá, dấu mình sau cây” (Mai chiếu thủy).
Nghĩ về mẹ, khi mình đã là mẹ, thơ Lệ Thu càng đằm sâu, bởi điểm tựa của suy tưởng đã có thêm kinh nghiệm của khách thể hỗ trợ, có thêm sự so sánh tương đồng để nhận thức và đúc kết:“À ơi… đôi cánh non mềm/ Ngủ đi hãy ngủ bình yên/ ngoan nào/ Ngủ trong tiếng biển rì rào/ Đủ lông mai sẽ bay vào trời xanh…/ À ơi…con ngủ đi nào/ Ngủ ngon mai sẽ bay vào niềm vui!” (Lời ru chim yến). Hình ảnh mẹ nhiều lần hiện hữu trong thơ chính là sự nhận thức về thời gian và sự hiện sinh không chỉ của chính mẹ mà còn chính là của mọi kiếp người trong hành trình sống và khát vọng. Và cao hơn chính là tầm khái quát có tính chân lý vĩnh hằng về dáng đứng Việt Nam qua chân dung người mẹ.
Dẫu dòng sông bên lở bên bồi
Nước vẫn chảy giữa đôi bờ che chở
Sau đám mây đen là mặt trời rực rỡ
Ta hiểu bạn, hiểu thù, ta hiểu lòng ta
Đau tột cùng không thốt tiếng rên la
Trước hạnh phúc bỗng thấy lòng bối rối
Xót cô Kiều tấm thân chìm nổi
Thương đất nước mình phải chịu lắm phong ba
(Điềm đạm Việt Nam)
Mạch thơ trữ tình đời tư và thế sự của Lệ Thu bao giờ cũng điềm đạm và nâng lên tầm nhận thức biện chứng. Nhà thơ chưa bao giờ dễ dãi với chính mình và thi ca. Những lời tự thoại, tự vấn cứ vang lên day dứt đầy hình tượng và ám ảnh:
Biển âm thầm dữ dội. Biển bao dung
Cứ trong trẻo đến cồn cào nỗi nhớ
Sau bão táp, dịu dàng cơn sóng vỗ
Bãi êm đềm rạng rỡ đón triều lên
Anh ngập tràn hạnh phúc đời em
Dẫu cơn sóng sẽ lui về xa thẳm
Ngấn cát mịn rưng rưng bờ muối mặn
Đứng trông vời như một giấc chiêm bao!
(Thủy triều)
Nếu những cây bút nữ trưởng thành sau 1975 cố gắng thể hiện mình bằng tiếng nói trẻ trung, có phần làm dáng và “tự sắm vai” ưu tư trước tuổi, thì Lệ Thu lại điềm tĩnh, thâm trầm sâu sắc và triết lý hơn theo trải nghiệm của riêng mình. Thơ bà không lẫn vào ai. Bà hướng về mình, sau đó nhìn ra tha nhân để tạo nên những kiến trúc mở của tâm hồn và thơ ca. Chất triết lý trong thơ Lệ Thu thường là nỗi buồn đau gan ruột và đã chín thành cảm xúc: “Lửa cháy đượm không gây tàn muội khói/ Đắng tận cùng là vị ngọt cao sang”. Để rồi “Không điều kiện, không chút gì thắc mắc/ Nhận về mình tất cả nỗi đau thương/ Khi tuổi trẻ đi qua cùng nhan sắc/ Hoa cuối mùa xin gửi lại nguồn hương”. Cuối cùng, sự cứu rỗi cuộc sống vẫn là lòng nhân ái, bao dung.
Muốn giữ mãi trong lòng mình yên lặng
Để người đi như một khách qua đường
Chỉ e ngại trong dặm dài trưa nắng
Anh cháy lòng không thấy suối yêu thương
(Hương gửi lại)
Thì thơ nói hộ tấm lòng thi sĩ: “Em muốn anh là đại dương/ Ngàn đời không thôi mới lạ/ Nhưng lại sợ lòng anh sâu thẳm quá/ Em làm sao đến được tận cùng”. Để rồi lại: “Em muốn anh là dòng sông/ Hào phóng ban phù sa bồi đắp/ Nhưng lại sợ sông dài tít tắp/ Nước trôi đâu dễ quay về”.
Và nhiều mong muốn khác:
Em muốn anh là vừng trăng
Của một đêm rằm tha thiết
Nhưng lại sợ mai rồi trăng khuyết
Tình yêu mờ nhạt theo mùa
Cho nên cuối cùng, nhà thơ tự vỗ về, an ủi:
Thôi anh hãy là vần thơ
Nhập vào tim em vậy nhé
Để muôn sau tình ta vẫn trẻ
Vẫn nồng nàn nguyên vẹn trong nhau!
(Vần thơ của em)
Cuộc đời không phẳng lặng nên không thể nào níu giữ thời gian, cũng như không thể nào biển thôi bão tố, đời thôi sóng gió. Cho nên mây trắng trên đầu luôn nhắc trái tim thơ: “Gửi hạnh phúc vào ngân hàng mùa Xuân/ gửi tình yêu vào mặt trời mùa Hạ/ một chút hồng của hoa/ một chút xanh của lá/ thấm thoắt đời ta/ mây trắng bạt ngàn” (Mây trắng).
Tứ thơ và hồn thơ Lệ Thu thường vang ngân trong giai điệu và điệp khúc có phần xót xa nhưng tin yêu vào cuộc sống và vẫn nguyện thầm dâng hiến đến cùng:
Củi đã cháy cho đời ngọn lửa
Phận mình đen nhẻm hòn than
Than lại cháy cho đời hơi ấm
Hóa thân mây trắng dịu dàng
(Ngày của đời người)
Bằng thơ, Lệ Thu đã quan niệm một cách chân thành, có phần gấp gáp về trọng trách của thi ca, thi sĩ và những người dám xả thân chiến đấu với cái xấu, cái ác trong thời bình: “Khi đời ta đã chọn làm chiếc lá/ Nguyện phơi mình quang hợp để nuôi cây/ Dẫu chẳng đạn bom trên mảnh đất này/ Nhưng ở đó cần hai lần dũng cảm” (Năm tháng đã qua – năm tháng đang về).
Bởi vì yêu thương con người và cuộc sống bằng sự rung động thật sự của trái tim mình nên tình yêu trong thơ không giả tạo: “Làng ven sông, làng yêu thương/ đêm trăng bên cầu gió lộng/ Gò Bồi quê hương nước mắm/ mặn mà cho ai, vì ai…” (Làng ven sông).
Thơ viết về bạn bè và kỷ niệm của Lệ Thu bao giờ cũng ân tình, xúc động thông qua những chi tiết gần gũi nhưng giàu sắc thái biểu cảm. Năm tháng đã qua – năm tháng đang về là bài thơ hay nằm trong mạch suy tư thâm trầm, triết lý này của Lệ Thu.
Ôi đất nước cái ngày xong giông bão
Nắng mênh mông trong mắt chúng tôi cười
Mái tóc bớt xanh, da bớt thắm – nửa đời
Người con gái trở về làm mẹ
Người con gái trở về băng vết thương đau xé
Giữa mặt trận đời thường
viên đạn núp sau tim
Trong mạch thơ hồi ức và đồng hiện này, Lệ Thu muốn làm sống lại những gì cao đẹp buổi nguyên sơ. Ở đó, sự hồn nhiên, tình người thánh thiện sẽ có khả năng phục sinh những tốt đẹp, tránh được những đam mê, cạm bẫy, lọc lừa.
Có một ngọn đèn giữa đồng quạnh gió chao
Em ráng giữ qua đêm dài khỏi tắt
Có một trái tim như ngọn đèn lay lắt
Xin chắn giùm một phía gió, nơi anh
(Gió)
Thơ Việt Nam sau 1975 có nhu cầu cấp bách quay về tìm hiểu chính bản thân con người cá nhân với những khám phá mới mẻ, như cách cân bằng cho một thời gian dài thơ dành cho cảm hứng sử thi, hoành tráng. Với Lệ Thu, nhu cầu này càng cấp thiết, qua đó, nhà thơ có dịp đánh thức những kinh nghiệm quan hệ cá nhân của mình bằng tiếng nói nghệ thuật bất ngờ và mới mẻ. Các thi phẩm Tri kỷ, Mây trắng và Tri âm của đất chính là nhu cầu ấy của nữ sĩ trong từng hiện thực mới của đời sống và nhu cầu được sống hết cái tôi thi sĩ của mình, trước khi nhìn ra tha nhân. Nhiều bài thơ hay, tứ thơ hay được Lệ Thu triển khai và khái quát thành những hình tượng có tính triết nghiệm bất ngờ. Đó là bước tổng hợp thi ca mới từ các tập thơ trước: Xứ sở loài chim yến, Niềm vui cửa biển, Hương gửi lại, Nguyện cầu, Chân dung tình yêu…, nhưng giờ đây lung linh hơn, trải nghiệm hơn.
Có thể xong rồi, có thể lặng im
Nhưng nhức nhối đến tận cùng nhịp thở
Năm tháng đã qua chưa lúc nào run sợ
Sao năm tháng đang về day dứt thế bạn ơi!
(Năm tháng đã qua – năm tháng đang về)
Lệ Thu luôn nhìn thế sự và cá nhân với cái nhìn khẳng định, nhưng có nghi vấn để truy tìm bản chất đích thực của tình yêu, tình đời một cách văn hóa. Sự lựa chọn hành vi đạo đức của mỗi cá nhân luôn gắn với đời tư và thế sự, để qua đó, nhà thơ nhận ra chân lý của cuộc sống.
Chúng ta đổi hạnh phúc, tuổi xuân
để có một chân trời
Chân trời ấy ai có quyền che khuất
Dù cuộc sống hôm nay có muôn vàn tủi cực
Bữa cơm chưa no, tấm áo chưa lành
Bầu trời kia ai bảo hết màu xanh
(Một thời ta sống)
Lệ Thu muốn mọi giả trá, đớn hèn phải bị tử thương trên hành trình đi tìm chân – thiện -mỹ, nhưng thật khó: “Biết làm sao để cất nổi một lời/ Bắn một phát/ Cho thói đê hèn kia gục chết”. Dù sao, nhà thơ vẫn tin vào sự chiến thắng của điều thiện đối với cái ác: “Nhưng dù cơn bão nhân tâm toan phả bằng sử sách/ Thì vàng vẫn là vàng/ Không thể nào đổi khác” (Giã từ chim báo bão). Xuất phát từ nhu cầu đối diện với chính mình, Lệ Thu buộc phải nhìn nhận và phát hiện vấn đề trong từng mối quan hệ cụ thể; sau đó, bình tĩnh và dũng cảm tự bạch những buồn vui, cơ cực của chính mình và san sẻ với chung quanh:
Đường trần thăm thẳm ngút xa
Chông gai lớp lớp, quỉ ma trùng trùng
Con thuyền bé nhỏ riêng – chung
Buông neo vũng xoáy, xuôi cùng lạch nông
Tình thì gặt những bão giông
Thơ thì gieo những cánh đồng bỏ quên…
(Là tôi)
Lệ Thu đã nhận ra hai sự thật (Sân khấu – Cuộc đời) tác động lẫn nhau mà con người cần phải tự mình lựa chọn để ứng xử hợp quy luật: “Sống khác bản thân/ Trên sân khấu hóa thiên tài/ Đóng kịch giữa đời thường/ Dẫu tinh vi/ Cũng không thể nào dấu được/ Bởi cuộc đời tính năm / Sân khấu thì tính phút/ Khán giả một đêm/ Bè bạn cả một đời”. Sân khấu và cuộc đời đều là sự sống, nhưng là hai hệ quả chân lý khác nhau, do hai cách ứng xử khác nhau.
Không ngừng âu lo, trăn trở, có lúc không khỏi rơi vào trạng thái bất lực và bất an trước nhân tình thế thái: “Tôi đem tất cả vàng mười/ Đặt lên canh bạc cuộc đời. Và thua” (Vần thơ Thị Kính). Nhưng rồi đời người, ai cũng phải đi hết vòng “trầm luân trần gian” mà mỗi phận người phải gánh chịu. Nhưng nhà thơ tự an ủi “rồi cũng qua đi tất cả”. Và điều còn lại là sự thanh thản sau khi đã dũng cảm chấp nhận mọi thử thách để trả những món nợ của lòng mình:
Nợ trần gian đắng cay – tôi đã trả
Trái tim thương khép lại cánh ưu phiền
…
Nợ trần gian nhọc nhằn -tôi đã trả
Trái tim thơ thanh thản bước qua cầu
(Chúc thư)
Trong mảng thơ đời tư, Lệ Thu khai thác đến tận cùng chính nội tâm mình để những vui buồn ân nghĩa được gọi tên. Bà sử dụng cặp phạm trù không gian và thời gian như một triết thuyết:“Mầm xanh bao hạt nở ra/ mỏi mòn bao lá úa già lìa cây/ tình yêu một thuở tròn đầy/ nhớ thương thương nhớ hao gầy một thân/ biết rằng trái đất xoay vần/ thắt lòng ai đã một lần biệt ly”. Không gian và thời gian có lẽ cũng là phạm trù tốt nhất để đối chiếu, so sánh những quan hệ nhân sinh và lịch sử:
Nhân loại ra đi từ mọi chân trời
Và gặp nhau nơi giấc mơ hạnh phúc
Lịch sử không lặp lại lần thứ hai
Khổ đau ơi, xin đừng điệp khúc
(Đối thoại miền cổ tháp)
Triết lý về thời gian, về tình yêu trong thơ Lệ Thu mang tính chiêm nghiệm, nhưng không phải một chiều mà thường là đa dạng với những đối lập giữa có và không, giữa hiện hữu và hư vô, giữa hiện tại và tương lai, giữa khoảnh khắc và vĩnh hằng, giữa nhớ và quên…
Tôi trong giàu sang – trong khổ nghèo lận đận
Trong vinh quang – trong thất bại ê chề
Tim vẫn đập như ngọn đèn kiên nhẫn
Giữa đêm trường soi tỏ bến si mê
(Tạ từ)
Ám ảnh tan vỡ và không bình yên luôn xuất hiện trong thơ Lệ Thu như là những dự cảm và khắc khoải có tính bản thể của thời hiện đại:
Ở đâu Địa ngục – Thiên đường
Ta riêng hạt bụi về nương luống cày
Hát lời muối mặn gừng cay
Ngàn năm vẫn với đất này… tri âm
(Tri âm của đất)
Trữ tình, nhưng không yếu đuối, ủy mị; độ lượng, tin yêu nhưng vô cùng quyết liệt. Đó là hồn thơ và chất thơ của Lệ Thu. Chính vì vậy, GS. Mai Quốc Liên cả quyết hơn khi nhận định: “Lệ Thu bao giờ cũng thật quyết liệt. Chị luôn phân rõ đúng – sai, đen – trắng, thật – giả. Nhưng trái tim Lệ Thu là một trái tim phụ nữ, giàu nữ tính – mặt có thể xem là bổ sung “đối trọng” của mặt quyết liệt kia. Tôi muốn nói đến thơ tình của chị. Rất nhiều. Tất cả nói lên một số phận, một con người – chân thành, đằm thắm trong yêu thương, tha thiết với tình yêu và luôn dạt dào, tươi mới. Thơ phải là như vậy, nó không thể chia cắt giữa cái này và cái kia, nó từ những con người mang trọn vẹn những sướng vui, đau khổ thời của nó. Thơ là số phận vút lên thành lời. Lệ Thu đã mang “số phận” vào và tự chọn cho mình một “số phận””(6).
Thơ Lệ Thu không bình lặng theo thời gian, bởi theo bà, thơ phải luôn đồng hành cùng cuộc sống để mang những vui buồn, khát vọng đến cho con người, dù có khi nhà thơ phải sống trong đơn độc: “Dẫu một mình chói chang/ Dẫu một mình tàn lụi/ Trái tim không bóng tối/ Chẳng khi nào cô đơn” (Một mình). Thơ Lệ Thu càng về sau càng nghiêng về triết lý, chiêm nghiệm. Ngay những tiêu đề bài thơ, bà thường có sự đúc kết thành những chân lý sâu sắc: Thế chấp, Điềm đạm Việt Nam, Tri kỷ, Tri âm của đất, Sân khấu – Cuộc đời, Thông điệp, Ký thác, Hương gửi lại, Chúc thư… là những bài thơ có tính triết mỹ như thế. Những thông điệp mà Lệ Thu chuyển đến người đọc bao giờ cũng qua kiểm nghiệm từ thực tiễn cá nhân và chung quanh. Nhà thơ sống hết nghĩa ân với cuộc đời và sẵn sàng đón nhận cả hồng phúc lẫn bi ai từ cuộc đời đem lại, chấp nhận những trái ngang riêng mình và nhận về mình tất cả những đau thương.
Có một ngọn đèn giữa đồng quạnh gió chao
Em ráng giữ qua đêm dài khỏi tắt
Có một trái tim như ngọn đèn lay lắt
Xin chắn giùm một phía gió… nơi anh!
(Gió)
Suốt thời chiến tranh, bà đã dâng hiến tuổi thanh xuân cho quê hương đất nước; giờ trong thời bình, bà bình tĩnh nhận ra bài học làm người không mấy bình yên, nhưng không thể không hy vọng. Chúc thư là bài thơ đượm chút buồn, nhưng thanh thản và bao dung: “Thôi vậy nhé/ rồi cũng qua đi tất cả/ một đời người như gió thổi ngoài hiên/ nợ trần gian đắng cay/ tôi đã trả/ trái tim thương khép lại cánh ưu phiền”. Có nhiều khoảng lặng, khoảng trống trong thơ, khiến người đọc ngậm ngùi, xa xót:
Thôi vậy nhé
rồi cũng qua đi tất cả
những buồn, vui, được, mất có gì đâu
nợ trần gian nhọc nhằn
tôi đã trả
trái tim thơ thanh thản bước qua cầu
Chính vì vậy mà dù viết về chủ đề nào, đối tượng nào, thơ Lệ Thu vẫn vang lên thông điệp yêu thương và dâng hiến. Bà luôn liên hệ, đối sánh với lịch sử, văn hóa và những danh nhân cụ thể trong quá khứ để tự nâng mình lên tầm thức nhận đồng hành cùng hiện tại. Với Xuân Diệu – thi sĩ đồng hương đàn anh khi ra đi, Lệ Thu ngậm ngùi rơi lệ, nhưng đã kịp nhận ra một sự vĩnh hằng đang hồi sinh cùng quê hương, xứ sở và những người thân: “Người khóc anh sau cùng/ có thể là người thương anh nhất/ vì không tin chia ly là sự thật/ không tin trên đời người ta có thể lìa nhau/ lớn hơn cuộc đời người ấy/ biển sâu thẳm nên xốn xang nhường vậy/ quá hững hờ/ biển vỗ khôn nguôi”. Và một tình cảm lây lan khác hiện lên: “Người khóc anh sau tất cả mọi người/ hạt nước mắt như là hạt muối/ ai biết được quê hương mình may, rủi/ tạo hóa sinh anh và anh đã đi rồi”. Lệ Thu thay mặt quê hương thương nhớ một nhà thơ lớn đơn côi:
Người thương anh
Thương cả Vạn Gò Bồi
Thương từng chiếc lá me rơi
Thương cả mùi nước mắm
Thương thơ anh đằm nguyên vị mặn
Dẫu trọn đời tình tự với đơn côi!
(Người khóc anh sau tất cả mọi người)
Thơ về tình mẹ con, tình bạn của Lệ Thu cũng được phóng chiếu hài hòa từ tư duy trữ tình và biện lý ấy nên thõa mãn nhận thức thẩm mỹ cho người đọc. Đó là cái tôi trữ tình tự soi tỏ, tự biểu hiện say mê. Tứ thơ hay và sức liên tưởng mới lạ trong thơ Lệ Thu cũng từ đó hình thành. Thơ Lệ Thu thể hiện tính chỉnh thể chặt chẽ. Vần điệu, tiết tấu cũng như các biện pháp tu từ trong thơ Lệ Thu đa dạng và có sáng tạo. Đặc biệt là thể thơ lục bát.
Là tôi một chuỗi lỗi lầm
Muốn quên lại nhớ, muốn cầm lại rơi
Muốn yêu chỉ mỗi một người
Lại thương cả đất cả trời bao la
Hão huyền ngọn gió không tên
Lơ mơ một cõi tháp, đền ngàn năm
Là tôi chọn kiếp con tằm
Suốt đời rút ruột, chết nằm trong tơ
(Là tôi)
Vốn sống, vốn học vấn và vốn hiểu biết nghệ thuật đã giúp Lệ Thu bền bỉ với thi ca mà không sợ đuối sức và không sợ lặp lại chính mình như những nhà thơ nữ cùng thế hệ trưởng thành trong chiến tranh. Hệ hình thơ mà Lệ Thu theo đuổi vẫn là hệ hình tiền hiện đại giai đoạn cuối, tiếp nối Thơ mới 1932-1945, nhưng luôn đổi mới theo nhịp tình cảm và nhịp sống khách quan mà nhà thơ nếm trải, sống qua.
Hành trình sống và hành trình thơ luôn đồng hành và như một sự cộng hưởng nhịp nhàng cùng với những thăng trầm của số phận, thơ Lệ Thungày càng lấp lánh những thành quả. Đến nay, ở tuổi 76, bà vẫn lặng lẽ sống, lặng lẽ làm thơ. Và thơ của bà càng tinh kết những nỗi niềm nhân thế. Cái mới của thơ Lệ Thu không phải ở những bứt phá câu chữ, vần điệu theo kiểu thơ văn xuôi, thơ tự do; cũng không phải chạy theo hệ hình thơ hậu hiện đại, thơ tân hình thức như một số nhà thơ trẻ đang theo đuổi; cái mới và cái hay của thơ Lệ Thu chính là bà đã phát huy, đổi mới tâm thức và thể loại ở tứ thơ, ở triết mỹ “mang tính thời sự – thời đại” có liên quan đến hoàn cảnh riêng của nhà thơ và của đất nước. Lệ Thu là nhà thơ nữ có phong cách của nền thơ hiện đại Việt Nam.
______________________
(1) Lời tựaNhật ký nữ nhà báo chiến trường, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2015, tr.5.
(2) Hội nhà văn Việt Nam, Nhà văn Việt Nam hiện đại, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội, 1997, tr.457.
(3) Hội nhà văn Việt Nam, Nhà văn Việt Nam hiện đại, Bđd tr.25.
(4) Nhiều tác giả, Đến với thơ Lệ Thu, Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 2000, tr.34.
(5) Lệ Thu, Điềm đạm Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội, 2014, tr.25.
(6) Lệ Thu, Điềm đạm Việt Nam, Bđd, tr.416.